Chính phủ Việt Nam vừa ban hành Nghị định 119/2025/NĐ-CP ngày 9/6/2025, sửa đổi Nghị định 06/2022/NĐ-CP về giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn. Động thái này siết chặt trách nhiệm của các cơ sở phát thải và tạo hành lang pháp lý cho việc vận hành thị trường carbon tại Việt Nam.
Cùng Thị trường Carbon điểm lại những thay đổi chính trong Nghị định 119, đồng thời phân tích những tác động mà doanh nghiệp cần biết, đặc biệt trong các lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp nặng. Thị trường carbon và tín chỉ carbon là hai chủ đề trung tâm, phản ánh quyết tâm của Việt Nam hướng tới phát triển bền vững và hội nhập với xu hướng toàn cầu.
Mở rộng phạm vi áp dụng và bổ sung định nghĩa then chốt
Nghị định 119 mở rộng đáng kể phạm vi áp dụng và đưa ra nhiều định nghĩa mới về thị trường carbon. Cụ thể, văn bản này áp dụng cho mọi tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động phát thải, giảm nhẹ và hấp thụ khí nhà kính; tổ chức và phát triển thị trường carbon; thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế. Điều này đồng nghĩa các nhà phát thải lớn, doanh nghiệp tham gia thị trường carbon, đến cả đơn vị sản xuất hoặc sử dụng các chất làm suy giảm tầng ô-dôn đều nằm trong diện điều chỉnh.
Nghị định 119 cũng bổ sung hàng loạt định nghĩa pháp lý quan trọng nhằm làm rõ các khái niệm về thị trường carbon và tín chỉ carbon, gồm có:
- Cơ chế Điều 6.2 Thỏa thuận Paris: Là cơ chế hợp tác song phương cho phép các quốc gia trao đổi tín chỉ carbon (kết quả giảm phát thải) để thực hiện mục tiêu NDC của mình. Đây chính là khung trao đổi tín chỉ quốc gia và quốc gia theo khoản 2 Điều 6 Thỏa thuận Paris.
- Cơ chế Điều 6.4 Thỏa thuận Paris: Là cơ chế thị trường quốc tế do Liên Hợp Quốc quản lý, cho phép các tổ chức đăng ký dự án theo phương pháp được UNFCCC công nhận và được cấp tín chỉ carbon sau khi dự án được thẩm định. Cơ chế này kế thừa cơ chế phát triển sạch (CDM) trước đây, tạo ra thị trường tín chỉ toàn cầu với sự giám sát của quốc tế.
- Sàn giao dịch carbon: Được định nghĩa lại là hệ thống giao dịch tập trung để mua bán hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Điều này khẳng định tất cả giao dịch tín chỉ và hạn ngạch trong nước sẽ phải thông qua một sàn giao dịch tập trung, đảm bảo minh bạch và quản lý thống nhất.
- Hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch và tín chỉ: Là hệ thống CNTT quản lý dữ liệu và tài khoản các chủ sở hữu hạn ngạch, tín chỉ; theo dõi mọi hoạt động vay mượn, nộp trả, chuyển giao, bù trừ hạn ngạch của các cơ sở. Hệ thống này sẽ kết nối với sàn giao dịch carbon, tạo nền tảng hạ tầng cho thị trường carbon vận hành hiệu quả.
- Phương pháp tạo tín chỉ carbon (cơ chế trong nước): Được bổ sung để làm rõ cách tính toán lượng giảm phát thải hoặc hấp thụ GHG của dự án so với kịch bản không có dự án. Đây là căn cứ để xác định số lượng tín chỉ carbon mà các dự án giảm phát thải (ví dụ dự án năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, trồng rừng, v.v.) có thể được cấp trong thị trường carbon nội địa.
Những định nghĩa mới này giúp chuẩn hóa thuật ngữ và tạo sự đồng bộ giữa khung pháp lý trong nước với thông lệ quốc tế. Việc đưa các khái niệm Điều 6.2 và 6.4 vào nghị định cho thấy Việt Nam đã sẵn sàng tham gia sâu vào thị trường carbon toàn cầu.
Cơ chế thị trường carbon: Hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon
Nghị định 119 thiết lập cơ chế thị trường carbon trong nước thông qua hệ thống hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon. Lần đầu tiên, lộ trình phân bổ hạn ngạch phát thải cụ thể theo từng giai đoạn được quy định rõ tại Điều 12 (sửa đổi).
- Giai đoạn 2025–2026: Các cơ sở phát thải lớn trong lĩnh vực nhà máy nhiệt điện, sản xuất sắt thép, xi măng nằm trong danh mục phải kiểm kê khí nhà kính sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải cụ thể. Bộ Nông nghiệp và Môi trường (cơ quan đầu mối) phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng xây dựng phương án phân bổ cho từng cơ sở, trình Thủ tướng phê duyệt trước 31/12/2025. Điều này đảm bảo ngay từ 2025, các ngành phát thải nhiều nhất sẽ nằm dưới “trần” phát thải được kiểm soát.
- Giai đoạn 2027–2028 và 2029–2030: Mở rộng đối tượng và tinh chỉnh hạn ngạch. Các bộ quản lý chuyên ngành sẽ đề xuất danh mục cơ sở được phân bổ hạn ngạch và lượng hạn ngạch hằng năm, gửi Bộ Nông nghiệp và Môi trường trước mốc 30/6 năm đầu giai đoạn. Sau đó, tổng hạn ngạch quốc gia sẽ do Thủ tướng phê duyệt, phân bổ cho từng cơ sở trước ngày 31/10 năm đầu tiên của giai đoạn. Cách làm này tạo chu kỳ phân bổ định kỳ, giúp doanh nghiệp có tầm nhìn trung hạn để lên kế hoạch giảm phát thải hoặc mua bán tín chỉ.
Phương pháp xác định hạn ngạch được xây dựng dựa trên nhiều yếu tố kỹ thuật và kinh tế. Nghị định nêu rõ hạn ngạch cho mỗi cơ sở sẽ tính toán trên cơ sở suất phát thải trên một đơn vị sản phẩm, mục tiêu tăng trưởng của ngành, mục tiêu giảm phát thải của ngành/cơ sở, tiềm năng giảm phát thải, cũng như năng lực công nghệ và tài chính của cơ sở. Công thức chi tiết được ban hành kèm theo Phụ lục của nghị định. Cách tiếp cận đa tiêu chí này nhằm đảm bảo việc phân bổ công bằng và khả thi, khuyến khích các doanh nghiệp hiện đại hóa công nghệ để có hạn ngạch thoải mái hơn.
Hạn ngạch phát thải khí nhà kính (allowance) được hiểu là quyền phát thải một lượng khí nhà kính nhất định. Nghị định 119 xác định một đơn vị hạn ngạch tương ứng với quyền phát thải 1 tấn CO₂ hoặc 1 tấn CO₂ tương đương. Các cơ sở được phân bổ hạn ngạch có thể sử dụng chúng để phát thải trong giới hạn, hoặc nếu dư thừa có thể đem trao đổi, mua bán trên thị trường carbon. Ngược lại, nếu thiếu hụt, cơ sở sẽ phải tìm mua bổ sung hạn ngạch hoặc tín chỉ để bù đắp.
Bên cạnh hạn ngạch, tín chỉ carbon là đơn vị được cấp cho kết quả giảm phát thải khí nhà kính (thường là 1 tấn CO₂ giảm được so với thông thường). Nghị định 119 công nhận tín chỉ carbon được tạo ra từ các chương trình, dự án giảm phát thải từ ngày 01/01/2021 thuộc cả cơ chế trong nước (Điều 20) và cơ chế quốc tế (Điều 20a). Điều này rất quan trọng: nó cho phép các dự án giảm phát thải trước đây (như dự án CDM, dự án tự nguyện, v.v.) có thể chuyển đổi kết quả giảm phát thải sau 2021 thành tín chỉ giao dịch được trên thị trường carbon Việt Nam.
Trao đổi hạn ngạch và tín chỉ carbon sẽ được thực hiện tập trung trên Sàn giao dịch carbon quốc gia theo đúng quy định pháp luật. Các giao dịch mua bán tín chỉ, hạn ngạch vì thế sẽ minh bạch, có sự giám sát của nhà nước, thay vì trao đổi tự do. Việc này giúp tránh tình trạng tín chỉ “ảo” hay gian lận, đồng thời tạo sân chơi công bằng cho các bên mua – bán.
Nộp trả hạn ngạch và cơ chế bù trừ: Một điểm mới quan trọng là trách nhiệm nộp trả hạn ngạch phát thải của doanh nghiệp vào cuối mỗi giai đoạn. Cụ thể, sau mỗi kỳ phân bổ, cơ sở phải nộp lại Nhà nước một lượng hạn ngạch tối thiểu bằng lượng phát thải thực tế của kỳ đó trừ đi phần đã được bù trừ bằng tín chỉ carbon. Việc nộp trả này thực hiện trên Hệ thống đăng ký quốc gia, trước ngày 31/12 của năm kế tiếp kỳ phân bổ. Quy định này giống “quyết toán” lượng phát thải: nếu doanh nghiệp phát thải vượt hạn ngạch (sau khi đã dùng tín chỉ bù trừ) thì sẽ bị coi là không tuân thủ.
Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp nộp thừa hạn ngạch hơn mức phát thải thực tế (nghĩa là giảm phát thải nhiều hơn yêu cầu), qua đó góp phần vào mục tiêu quốc gia về giảm phát thải. Ngược lại, nếu không nộp đủ, doanh nghiệp sẽ bị xử phạt theo quy định về môi trường và bị trừ vào hạn ngạch phân bổ của giai đoạn sau một lượng tương ứng với phần thiếu hụt. Cơ chế “phạt thẳng tay” này đảm bảo việc tuân thủ là bắt buộc, tránh tình trạng doanh nghiệp cố tình chây ì.
Linh hoạt trong giai đoạn đầu: Từ nay đến 2030, Nghị định cho phép một cơ chế “ngân hàng” hạn ngạch linh hoạt. Cụ thể, hạn ngạch phân bổ nhưng chưa sử dụng hết (sau khi đã nộp trả) có thể chuyển sang giai đoạn kế tiếp và tiếp tục được dùng để trao đổi. Điều kiện là doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ nộp trả của giai đoạn cũ. Sau 2030, cơ chế này có thể được xem xét lại, nhưng trong 5 năm tới, đây sẽ là động lực để doanh nghiệp tiết kiệm hạn ngạch (giảm phát thải nhiều) nhằm bán dư thừa hoặc dùng cho kỳ sau. Ngược lại, sau 30 ngày kể từ hạn chót nộp trả, nếu doanh nghiệp nào còn thừa hạn ngạch mà không chuyển giao thì số hạn ngạch thừa đó sẽ bị hủy bỏ trên hệ thống và không được tích lũy nữa. Quy định này ngăn chặn việc doanh nghiệp “om” hạn ngạch quá lâu và buộc họ phải chủ động quyết định sử dụng hay giao dịch phần thừa trong thời hạn nhất định.
Tóm lại, bằng việc thiết lập hệ thống hạn ngạch và tín chỉ, Nghị định 119 đã đặt nền móng cho thị trường carbon vận hành: doanh nghiệp nào giảm phát thải tốt có thể thu lợi từ bán hạn ngạch/tín chỉ dư thừa, doanh nghiệp nào khó giảm phát thải có cơ chế mua lại từ thị trường để tuân thủ quy định.
Vận hành thị trường carbon: từ sàn giao dịch trong nước đến kết nối quốc tế
Để thị trường carbon vận hành suôn sẻ, Nghị định 119 cũng quy định rõ về tổ chức thị trường, cơ sở hạ tầng giao dịch và sự tham gia của Việt Nam vào thị trường carbon quốc tế.
Thị trường carbon trong nước sẽ hoạt động qua một Sàn giao dịch carbon chính thức. Theo Nghị định, Bộ Tài chính chủ trì xây dựng và thành lập Sàn giao dịch carbon, đồng thời xây dựng các chính sách tài chính phục vụ hoạt động thị trường carbon. Sau khi hình thành, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ trực tiếp tổ chức vận hành Sàn, phối hợp với các bộ ngành liên quan. Các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh được giao trách nhiệm hỗ trợ hai bộ trên trong việc thúc đẩy phát triển thị trường carbon cũng như tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về thị trường mới mẻ này. Như vậy, khung thể chế đã phân công rõ: Bộ Tài chính lo về hạ tầng và khung chính sách giao dịch, còn Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay gộp chung trong Bộ Nông nghiệp & MT) lo về vận hành và quản lý chuyên môn. Sự phối hợp liên bộ này nhằm bảo đảm thị trường carbon được vận hành minh bạch, hiệu quả và đúng pháp luật.
Hệ thống đăng ký quốc gia cũng được xác lập là xương sống kỹ thuật cho thị trường. Bộ Nông nghiệp & Môi trường sẽ xây dựng, quản lý Hệ thống đăng ký quốc gia, đồng thời đảm bảo kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống đăng ký với hệ thống của sàn giao dịch carbon. Mỗi doanh nghiệp, tổ chức tham gia thị trường carbon sẽ có tài khoản trên hệ thống để theo dõi hạn ngạch và tín chỉ của mình. Tất cả giao dịch (mua, bán, vay mượn, chuyển nhượng, nộp trả, bù trừ) đều được ghi nhận. Hệ thống này đóng vai trò như “sổ cái” trung ương về carbon, giúp tránh gian lận và đảm bảo không có tín chỉ hay hạn ngạch nào được bán hai lần.
Đối tượng tham gia thị trường được mở rộng so với trước đây. Nghị định 119 sửa đổi Điều 16 xác định rõ:
- Chủ thể được trao đổi hạn ngạch phát thải: là các cơ sở được phân bổ hạn ngạch theo quy định (như các nhà máy điện, xi măng, thép đã nêu).
- Chủ thể được trao đổi tín chỉ carbon: là mọi cơ quan, tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam. Điều này nghĩa là không chỉ các cơ sở bị khống chế phát thải, mà bất kỳ doanh nghiệp nào (ví dụ công ty công nghệ, quỹ đầu tư, tổ chức trung gian…) cũng có thể tham gia mua bán tín chỉ carbon trên sàn. Thị trường do đó sẽ có tính mở và tính thanh khoản cao hơn, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia.
- Tổ chức hỗ trợ giao dịch: là các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính hỗ trợ hoạt động trao đổi hạn ngạch, tín chỉ trên thị trường carbon. Đây có thể là các ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ carbon, hay tổ chức tư vấn… đóng vai trò trung gian, môi giới, tạo thanh khoản cho thị trường. Việc thừa nhận vai trò tổ chức trung gian chuyên nghiệp là cần thiết để thị trường vận hành theo cơ chế thị trường hiện đại.
Lộ trình triển khai thị trường carbon trong nước cũng được điều chỉnh rõ hơn. Theo Nghị định 119, đến hết năm 2028 Việt Nam sẽ thiết lập xong Hệ thống đăng ký quốc gia, vận hành thí điểm Sàn giao dịch carbon trong nước, triển khai cơ chế trao đổi và bù trừ tín chỉ carbon nội địa, đồng thời tăng cường năng lực cho các bên tham gia. Từ năm 2029 trở đi, sẽ thực hiện cơ chế đấu giá hạn ngạch, hoàn thiện quy định quản lý tín chỉ và giao dịch hạn ngạch/tín chỉ, cũng như khung pháp lý để tổ chức, vận hành thị trường carbon trong nước và tham gia thị trường carbon thế giới. Nói cách khác, giai đoạn 2025–2028 là giai đoạn thí điểm (các giao dịch bước đầu, chưa có đấu giá hạn ngạch), còn từ 2029 thị trường sẽ hoạt động đầy đủ với cả đấu giá, mở rộng đối tượng và kết nối quốc tế. Lộ trình này tương đồng với lộ trình Thủ tướng phê duyệt hồi đầu năm 2025, khi Việt Nam đặt mục tiêu phát triển thị trường carbon để hỗ trợ mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào 2050.
Kết nối với thị trường carbon quốc tế (Điều 6.2 và 6.4)
Một điểm đột phá của Nghị định 119 là tích hợp các cơ chế thị trường carbon quốc tế vào luật chơi trong nước, mở ra khả năng giao lưu tín chỉ carbon xuyên biên giới. Nghị định bổ sung Điều 20a quy định về “Cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế”, theo đó:
- Tham gia cơ chế Điều 6.2 Thỏa thuận Paris: Chính phủ Việt Nam có thể ký kết thỏa thuận song phương hoặc đa phương với quốc gia đối tác để trao đổi tín chỉ carbon giữa hai bên. Đây là cơ sở để triển khai các hiệp định mua bán tín chỉ hoặc dự án hợp tác song phương về giảm phát thải (ví dụ cơ chế JCM với Nhật Bản trước đây, hay các thỏa thuận tín chỉ song phương mới).
- Tham gia cơ chế Điều 6.4 Thỏa thuận Paris: Việt Nam chấp nhận cho các tổ chức trong nước đăng ký dự án theo cơ chế 6.4 dưới sự quản lý của UNFCCC. Để làm được điều này, Bộ Nông nghiệp & MT được giao thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ, đánh giá và cấp thư chấp thuận cho các chương trình, dự án muốn tham gia cơ chế 6.4. Thời hạn xử lý tối đa cho việc đánh giá và chấp thuận là 30 ngày kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ, đảm bảo nhanh chóng để dự án sớm được đăng ký quốc tế. Nghị định cũng cho phép chuyển đổi các dự án đăng ký theo cơ chế phát triển sạch (CDM) trước đây sang cơ chế 6.4 nếu nộp hồ sơ trước 30/9/2025. Điều này rất quan trọng cho các chủ dự án CDM cũ, giúp họ bảo toàn và tiếp tục khai thác tín chỉ dưới cơ chế mới của Paris.
- Cơ chế quốc tế khác: Ngoài 6.2 và 6.4, Nghị định không bỏ sót các cơ chế thị trường carbon quốc tế khác. Khoản 1 Điều 20a điểm c cho phép tham gia các cơ chế trao đổi tín chỉ quốc tế khác không thuộc 6.2 hoặc 6.4, nhưng phải theo quy định của cơ quan quản lý cơ chế đó. Điều này có thể bao gồm thị trường tự nguyện toàn cầu, hoặc các cơ chế khu vực, hàng không (CORSIA) v.v. – mở rộng cánh cửa để tín chỉ carbon từ Việt Nam tiếp cận mọi thị trường tiềm năng.
Để tránh “thất thoát” tín chỉ ảnh hưởng đến cam kết NDC của quốc gia, Nghị định 119 thiết lập quy trình chặt chẽ cho việc chuyển giao tín chỉ carbon ra nước ngoài (tức là bán tín chỉ do Việt Nam tạo ra cho đối tác quốc tế). Đối với tín chỉ thuộc các dự án trong hiệp định song phương (Điều 6.2), Bộ Nông nghiệp & MT sẽ xem xét và cấp văn bản chấp thuận chuyển giao tín chỉ quốc tế trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi nhận đề nghị của chủ dự án. Còn với các dự án đầu tư công không thuộc cơ chế trên (ví dụ dự án sử dụng ngân sách, ODA muốn bán tín chỉ ra quốc tế), thì cơ quan chủ quản dự án phải xin ý kiến các bộ ngành liên quan và được Bộ NN&MT ban hành văn bản chấp thuận thì mới được chuyển tín chỉ ra nước ngoài. **Lưu ý rằng, nếu không có sự chấp thuận này, tín chỉ hoặc kết quả giảm phát thải của dự án chỉ được sử dụng cho mục tiêu NDC của Việt Nam, không được dùng để đóng góp cho NDC nước khác. Quy định này nhằm tránh hiện tượng “double counting” một lượng giảm phát thải cho hai quốc gia – tuân thủ chặt chẽ yêu cầu của Thỏa thuận Paris về minh bạch.
Nhìn chung, với Nghị định 119, Việt Nam đã sẵn sàng kết nối thị trường carbon trong nước với quốc tế, cho phép các doanh nghiệp trong nước tiếp cận nguồn vốn carbon quốc tế cũng như cho phép tín chỉ carbon Việt Nam tham gia thị trường toàn cầu. Đây được coi là bước chuẩn bị để Việt Nam vừa thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án giảm phát thải, vừa bảo đảm hoàn thành các cam kết khí hậu quốc gia.
Tải bản đầy đủ tại đây: Nghi dinh so 119.
Thị trường Carbon